Về một loại hình di tích đặc biệt : Lò – Mộ (Xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên)
1.Vị trí địa lý
1.Vị trí địa lý
Khu di tích Xuân Sơn Nam có toạ độ địa lý 13021’647” Vĩ độ Bắc; 109008’664” Kinh độ Đông, độ cao so với mực nước biển 10,2m, thuộc địa bàn thôn Tân An, xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Vị trí này cách đường sắt Bắc - Nam và đường ĐT 641 khoảng 300 mét về phía Bắc, cách thị trấn La Hai khoảng 5km về phía Đông, cách thị trấn Chí Thạnh khoảng 10km, cách bờ biển khoảng 25km về phía Tây.
Nhìn tổng thể, di tích phân bố trong thung lũng sông Cái, hai bên có núi cao bao bọc. Sát bên di tích là sông Cái bắt nguồn từ núi La Hiên nằm giáp giới giữa ba tỉnh Phú Yên, Bình Định và Gia Lai. Con sông này có chiều dài 120km, riêng phần chảy trong địa phận Phú Yên là 76km. Sông Cái chảy theo hướng tây - đông, chảy qua địa phận huyện Đồng Xuân và huyện Tuy An rồi đổ ra cửa Tiên Châu trong vịnh Xuân Đài. Trong suốt chiều dài, dòng sông này có hai tên gọi khác nhau. Đoạn đầu nguồn có tên là sông Kỳ Lộ, đoạn từ thị trấn La Hai ra đến cửa Tiên Châu có tên là Sông Cái. Dưới thời phong kiến, đoạn sông Kỳ Lộ là nguồn Hà Duy. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Nguồn Hà Duy: ở thôn Phú Thành, phía tây huyện Đồng Xuân...Ở nguồn có trường giao dịch, đặt một thủ ngự, phía bắc có đồn Thạch Lãnh ở xã Phước Đức, phía tây có đồn Kỳ Lộ ở thôn Phú Thành, phía nam có đồn Vân Trúc ở thôn Hà Nguyên, đều đặt từ năm Minh Mệnh thứ 3”. (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 2006, trang 87-88). Còn ở hạ lưu gồm nhiều làng nghề truyền thống nhưng nay đã bị mai một, trong đó đáng chú ý có làng gốm Quảng Đức được hình thành khoảng thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII, làng gốm này cách khu di tích khoảng 17km về phía hạ lưu.
Sông Cái đoạn chảy qua Xuân Sơn Nam rộng khoảng 400 - 500 mét, về mùa khô nước sông chỉ còn một dòng chảy nhỏ sâu khoảng 1 - 2 mét, nhưng mùa mưa nước dâng cao tràn cả hai bên bờ. Phía nam di tích là khu dân cư của thôn Tân An, sát thôn này có núi U Cây Da cao khoảng 150 mét, theo người dân địa phương cho biết trên đỉnh núi này có dấu tích kiến trúc Chăm. Còn phía bắc di tích, nằm bên kia sông Cái là thôn Tân Bình của xã Xuân Sơn Bắc, ở đây có chợ Gò Chai là một địa điểm giao thương đã hình thành từ lâu đời. Cũng tại thôn Tân Bình vào các năm 2005, 2006 Bảo tàng Phú Yên đã khảo sát và phát hiện dấu tích kiến trúc Chăm.

Di tích Xuân Sơn Nam phân bố trên một doi đất cao sát bên hữu ngạn sông Cái có tên là soi Tân An. Doi đất này có chiều dài khoảng 700 mét, chiều rộng khoảng 150 mét. Trên bản đồ địa chính, giải thửa cho thấy di tích này nằm trong các lô 123; 124; 126; 127 với diện tích 3725m2. Đầu thế kỷ XX, đây là điểm định cư chính của thôn Tân An, nhưng đến trận lụt lớn vào năm 1924, toàn bộ các hộ dân sinh sống tại địa điểm này đã chuyển vào sát chân núi cách điểm định cư cú khoảng 300 mét. Sau khi các hộ dân chuyển đi nơi khác, soi Tân An trở thành đất canh tác các loại cây hoa màu như đậu, bắp, sắn, mía... Phía giáp bờ sông có luỹ tre dày bao bọc. Cho đến trận lũ lịch sử vào năm 2009, toàn bộ cây cối và một lớp đất dày khoảng 1 mét trên doi đất này bị cuốn trôi nên đã xuất lộ khu di tích đất nung.
Trong thời gian khai quật khu di tích tại Xuân Sơn Nam chúng tôi còn tiến hành khảo sát thêm 2 di tích theo báo dẫn của nhân dân địa phương.
Di tích thứ nhất nằm ở thôn Long Hà thuộc thị trấn La Hai, cách khu di tích Xuân Sơn Nam khoảng 7 km về phía Tây. Cách chợ Đồng Dài cũ khoảng 200 mét về phía bắc, cách sông Kỳ Lộ khoảng 150 mét về phía nam và nằm ngay sát bên suối Môn, ở độ sâu khoảng 50cm so với mặt ruộng canh tác. Di tích lò xuất lộ sau trận lũ năm 2009. Phần xuất lộ cho thấy lò có chiều dài 200cm, chiều rộng 80cm, thành gốm dày 8cm. Về hính dáng và đặc điểm giống với các di tích đã xuất lộ ở Xuân Sơn Nam.
Di tích thứ hai nằm ở thôn Tân Vinh 2, cũng thuộc xã Xuân Sơn Nam. Di tích này nắm cách khu di tích ở thôn Tân An khoảng 2km về phía đông, cách đường ĐT 641 khoảng 200 mét về phía nam. Lò này nằm ngay trên đường đi vào thôn Tân Vinh 2, ở độ sâu khoảng 40cm so với mặt ruộng xung quanh. Phần xuất lộ cho thấy lò có chiều dài 200cm, chiều rộng 80cm, thành gốm dày 8cm. Về hình dáng và đặc điểm của di tích này cũng giống với các di tích đã xuất lộ ở Tân An.
2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu ban đầu.
Trận lũ vào cuối năm 2009 đã cuốn trôi bờ tre phía ngoài doi đất, đồng thời cuốn trôi lớp đất mặt dày khoảng 1m, do vậy đã làm xuất lộ khu di tích. Ban đầu nhận định đây là 1 loại lò nung.
Toàn bộ khu di tích xuất lộ trên diện tích 3725m2 chúng tôi đã thống kê có 73 di vật đất nung xuất lộ. Một loạt lò xuất lộ phân bố không đều, có nơi di tích nằm riêng lẻ nhưng cũng có nơi phân bố thành từng cụm từ 2 đến 3 lò. Những lò này không nằm theo một hướng cố định mà nằm quay theo nhiều hướng khác nhau. Về hình dáng của các di tích, do nước lũ tàn phá nên phần lớn các lò đã bị hư hỏng phần phía trên, mà theo phỏng đoán có thể đã bị mất khoảng 1/3. Phần còn lại cho thấy chúng có hình dáng khá đồng nhất, mặt cắt theo chiều ngang có hình bầu dục, hai đầu có 2 cửa, trong đó có một cửa lớn và một cửa nhỏ. Chỉ cá biệt một vài cái chỉ có cửa ở một đầu. Thành lò làm bằng đất nung. Kích thước của các di tích không đều nhau chiều dài dao động từ 1,5m đến 3m; chiều rộng từ 0,5 đến 1,1m; thành dày từ 2cm đến 9cm.
2.1. Kết quả thám sát
- Lò thứ nhất:
Nằm theo hướng tây nam - đông bắc, có hình bầu dục, đầu có cửa nằm hướng tây - nam, đầu còn lại thành lượn tròn. Chiều dài chỉ tính riêng phần thân là 1,5m và nếu tính cả phần cửa thì di tích có chiều dài 1,9m; chiều rộng 95cm và chiều cao là 59cm (chưa tính phần trên đã bị vỡ). Phần đất phía trong từ mặt đất hiện tại đến độ sâu 0,3m chủ yếu là đất sét pha cát; từ độ sâu 0,3 đến độ sâu 0,5cm là đất sét pha cát và lẫn nhiều than tro. Hết độ sâu 0,5m cũng hết phần thành của lò nhưng không thấy phần đáy mà chỉ thấy một lớp đất tự nhiên bị cháy nhẹ dày khoảng 10cm, như vậy lò này không có đáy. Hết lớp đất cháy là lớp đất sét mịn có màu xám nhạt. Sau khi xuất lộ hoàn toàn đã cho thấy vách lò dày 0,9cm, cao 0,5cm. Cả 2 mặt vách đều được gia công tương đối phẳng, được làm bằng đất sét mịn sau đó được nung chín nên có màu vàng tươi. Vách có xu hướng càng xuống dưới càng được vuốt mỏng. Đáy cửa nghiêng một góc khoảng 450.
- Lò thứ hai:
Lò này nằm theo hướng Bắc – Nam, cách di tích thứ nhất 0,5 m về phía tây – nam. Phần phía trên đã bị vỡ, phần còn lại có hình bầu dục, 2 đầu có 2 cửa, trong đó cửa nhỏ còn nhận biết được hình dáng nẳm ở hướng nam, cửa lớn đã bị hư hỏng hoàn toàn năm ở hướng bắc. Chiều dài 2m; chiều rộng 90cm và chiều cao 55cm (chưa tính phần trên đã bị vỡ). Vách dày 8cm, được làm bằng đất sét mịn và được gia công ở cả 2 mặt tương đối phẳng, vách được nung chín và có màu vàng tươi. Càng lên cao càng có xu hướng cúp vào trong.
Phần trong di tích từ mặt đất đến độ sâu 45cm là đất sét pha cát, từ độ sâu 45cm đến độ sâu 55cm là một lớp than tro dày 10cm hầu như không lẫn tạp chất, dưới lớp than tro là một lớp đất có hiện tượng bị cháy dày 10cm. Dưới lớp đất này là lớp đất sét mịn có màu xám nhạt. Đáy cửa nghiêng một góc khoảng 450.
- Lò thứ ba:
Nằm theo hướng Bắc – Nam, cách lò thứ hai 20m về phía tây - nam. Phần phía trên lò đã bị vỡ, lò có hình bầu dục, 2 đầu có 2 cửa, trong đó cửa nhỏ dài 20cm, rộng 30cm nằm ở hướng nam, cửa lớn dài 80cm, rộng 40cm nằm ở hướng bắc, chiều dài 2,9m; chiều rộng 1,1cm và chiều cao 60cm (chưa tính phần trên đã bị vỡ). Vách dày 9cm, được làm bằng đất sét mịn và được gia công ở cả 2 mặt tương đối phẳng, vách được nung chín và có màu vàng tươi. Càng lên cao càng có xu hướng cúp vào trong.
Phần trong lò từ mặt đất đến độ sâu 20cm là đất sét pha cát, từ độ sâu 20cm đến độ sâu 55cm là đất sét pha cát lẫn than tro, dưới lớp than tro là một lớp đất có hiện tượng bị cháy dày 10cm. Dưới lớp đất này là lớp đất sét mịn có màu xám nhạt. Đáy cửa nhỏ nghiêng một góc khoảng 450, đáy cửa lớn nghiêng một góc khoảng 300.
- Lò thứ tư:
Lò này nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, lệch hướng bắc một góc khoảng 300 và cách di tích thứ ba 5m về phía tây - nam. Phần phía trên đã bị vỡ, phần còn lại có hình bầu dục, 2 đầu có 2 cửa, trong đó cửa nhỏ còn nhận biết được hình dáng có chiều dài 40cm, chiều rộng 30cm nẳm ở hướng tây nam, cửa lớn đã bị hư hỏng phần đáy có chiều dài 50cm, chiều rộng 40cm nằm ở hướng đông bắc, chiều dài 2,6m; chiều rộng 80cm và chiều cao 60cm (chưa tính phần trên đã bị vỡ). Vách lò dày 8cm, được làm bằng đất sét mịn và được gia công ở cả 2 mặt tương đối phẳng, thành được nung chín và có màu vàng tươi. Càng lên cao càng có xu hướng cúp vào trong.
Phần trong từ mặt đất đến độ sâu 60cm là lớp đất có hiện tượng đã bị xáo trộn, trong đó chủ yếu là đất sét mịn lẫn than tro và một số mảnh chén đĩa có niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Dưới lớp đất đã bị xáo trộn là một lớp đất có hiện tượng bị cháy dày 10cm. Dưới lớp đất có hiện tượng bị cháy là lớp đất sét mịn có màu xám nhạt. Đáy cửa lớn đã bị hư hỏng, đáy cửa nhỏ nghiêng một góc khoảng 450.
2.2. Nhận xét ban đầu
1.Đây là một khu di tích đất nung phân bố trên một diện tích tương đối rộng lớn và có mật độ dày. Ngoài các di tích đã xuất lộ, rất có thể còn nhiều di tích vẫn bị vùi lấp trong lòng đất.
2.Đây không phải là loại hình mộ chum như một số phương tiện thông tin đại chúng đã từng đưa tin.
3.Nếu căn cứ vào hình dáng của di tích thì có thể nghĩ rằng đây là loại hình lò nung. Nhưng căn cứ vào các yếu tố kỹ thuật như độ dày của thành di tích, các cửa ở 2 đầu di tích, dấu tích phế phẩm… thì không thể nói đây là loại hình lò nung liên quan đến các nghề thủ công truyền thống. Do đó hiện nay chưa thể biết được một cách chắc chắn loại hình di tích này, nhưng đây là khu di tích mang nhiều giá trị về lịch sử văn hoá.
4.Do phạm vi phân bố của khu di tích nằm sát bờ sông lại thuộc khu vực canh tác nên khả năng khu di tích này bị nước lũ cuốn trôi họăc bị huỷ hoại do quá trình lao động sản xuất là rất lớn.
5.Mặc dù còn cần phải tiếp tục nghiên cứu, thu thập tài liệu để có cơ sở kết luận nhưng rất có thể đây là khu di tích liên quan đến tục hoả táng của cư dân ChamPa.
3.Khai quật khẩn cấp
Nhận thức được tầm quan trọng của di tích này, Sở VH-TT&DL Phú Yên phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật khẩn cấp di tích Xuân Sơn Nam theo Quyết định số 400 QĐ/SVHTTDL, ngày 15 tháng 10 năm 2010.
Cuộc khai quật được triển khai, đoàn khai quật quyết định mở 2 hố: Hố 1 và hố 2.
Hố 1 (ký hiệu H1) nằm trên doi đất ven sông, xung quanh là cát. H1 có hướng Bắc – Nam, chếch Đông 25o , diện tích 20m2 với các chiều Bắc – Nam 4m, Đông – Tây 5m. Sau khi làm vệ sinh, dọn sạch mặt bằng và bóc lớp mặt, lò 1 (kí hiệu L1A) đã xuất lộ rất rõ đồng thời cách L1A hơn 1m về phía Đông xuất lộ dấu vết của 2 lò hiện đại (kí hiệu L1B), đào sâu xuống lòng đất, có thể đây là lò nấu mật mía của cư dân địa phương cách đây vài chục năm. Một chậu gốm của 1 trong 2 lò này còn cắt vào vách Đông L1. Sự xuất hiện của các lò hiện đại này càng cho thấy niên đại sớm của những di tích đang quan tâm.
L1A có hình ô van, thắt 2 đầu, lớp đất xung quanh có màu nâu đỏ do chịu tác động của nhiệt độ cao, gờ miệng lò có dấu hiệu bị ghè vỡ, độ dày trên cùng 7cm, dưới đáy 2cm. Lò dài toàn bộ 2,15m, rộng nhất phía trên 85cm, rộng lòng 70cm. Quá trình bóc từng lớp trong lòng lò thấy xuất hiện những vệt đất pha cát màu xám do có sự thẩm thấu của tro than trong lòng lò. Đến sát đáy lò xuất hiện một đám đất nung có màu đỏ như gạch tập trung ở giữa lòng, đây có thể là nơi chụm lửa ban đầu. Xung quanh những viên đất này và trải khắp lòng lò là lớp than tro dày trung bình 3cm, trong lớp tro than này chúng tôi đã phát hiện được những mẩu xương nhỏ bị cháy đen. Đây là chứng cứ cực kì quan trọng cho việc xác định tính chất và công năng của lò mà trong đợt thám sát trước đó mới chỉ là giả thuyết. Hết lớp tro than là đáy lò có màu đen, phẳng, được nối liền với thân lò, độ dày của đáy 2cm. Toàn bộ cấu trúc của lò cho thấy đây là một loại lò đất nung, hình thuyền, 2 đầu có lỗ thoát và máng thông với bên ngoài. Vách ngoài ở đầu thắt phía Bắc có dấu vết của lỗ cá dùng để cố định lò và làm sàn thiêu bên trên. Đầu phía Nam, trên miệng thoát có dấu chôn cột là một lỗ hình tròn xuyên qua đầu lò, đây cũng có thể là cột giàn thiêu. Trong lòng lò là nơi đốt lửa thiêu đầu tiên với nhiệt độ rất cao đủ để cháy giàn củi bên trên và xác hoặc xương (nếu thiêu khô). L1A là lò lớn và tương đối hoàn chỉnh. Chúng tôi đã bó thạch cao, cưa ra làm 6 phần để vận chuyển về bảo tàng.


Hố 2, (kí hiệu H2), cách H1 42m về phía Tây. H2 có diện tích 12m2 với các cạnh Đông – Tây 4m, Bắc – Nam 3m. Trong H2 có 2 lò (kí hiệu L1; L2 theo trật tự từ Đông sang Tây) nằm song song theo hướng Bắc – Nam cách nhau 40cm. Hai lò này có kích thước nhỏ hơn L1A của H1và thành lò cũng mỏng hơn. Cả 2 lò này đều bị hủy hoại khá nặng nề, thành vách lò bị vỡ mất nhiều, một đầu phía Nam gần như không còn quan sát được phần thắt và thông lên trên như L1A của H1. Tại di tích này một số lò cũng có tình trạng tương tự, khi thám sát ban đầu chúng tôi đã cho rằng có 1 loại lò chỉ có một đầu thắt, nhưng khi khai quật H2, chúng tôi nhận định đầu thắt phía Nam của các lò này đã bị đập vỡ để chôn và mới đây một phần bị lũ làm mất đi.



L1 dài 1,90m, rộng 1m. L2 dài 1,60m, rộng 1m. Hai lò này có hình bầu tròn hơn L1A, độ cong của thành lò lớn hơn và dộ dày của thành lò mỏng hơn. Về cơ bản, diễn tiến trong và ngoài lò của L1 và L2 cũng không khác L1A. Bên trên, trong lòng cả 2 lò có một số viên đá tự nhiên kích thước lớn nhỏ khác nhau như được đặt vào để lấp lò. Dưới lớp đá này, trong lớp đất phủ lòng lò có lẫn nhiều mảnh thành lò như đã bị ghè vỡ. Lớp đất sát vách lò cũng có hiện tượng chịu nhiệt độ cao trở nên cứng và có màu nâu đỏ. Code đáy của 2 lò này bằng nhau, lại nằm song song khiến chúng tô nghĩ đến giả thuyết 2 lò này được sử dụng thiêu và lấp chôn trong cùng một thời gian, và như vậy chúng sẽ có mối liên hệ nào đó. Tuy nhiên điều này còn cần phải nghiên cứu kỹ hơn.
Trong lớp than ở đáy lò, đặc biệt là L1, lẫn khá nhiều cục, mẩu xương bị cháy đen, thậm chí đã bị chảy như cao, rất dễ nhận ra.
Sau khi kết thúc khai quật, chúng tôi đã tiến hành bó thạch cao cả 2 lò vận chuyển về bảo tàng tỉnh.
4.Nhận xét
4.1. Qua những chứng cứ khảo cổ học như tro than, xương cháy có thể kết luận chắc chắn đây là một loại hình lò hỏa táng được làm bằng đất nung. Có thể đưa ra giả thuyết: Những lò này được sản xuất hàng loạt ở một nơi khác được vận chuyển đến khu vực được chọn làm nơi tiến hành nghi lễ hỏa táng. Trên diện tích 3725m2 đã thống kê được 73 lò, có thể nhận định đây là một khu chuyên tiến hành các nghi lễ hỏa táng lớn.
Với những chứng cứ xương cháy và lớp tro than khá dày còn lại trong lò (chắc chắn có lẫn cốt đã thành tro), cùng với hiện tượng đập phần trên của thành lò lấp vào cùng với đất, đá, chúng tôi nhận định: Ngoài tính chất là lò thiêu ở giai đoạn đầu, lò này còn đóng vai trò là một quan tài bằng đất nung ở giai đoạn sau của nghi lễ táng người chết của chủ nhân khu di tích. Với tính chất như vậy, chúng tôi đề nghị gọi loại hình di tích này là Lò-Mộ và gọi khu di tích này là: Khu di tích Lò-Mộ Xuân Sơn Nam, Đồng Xuân, Phú Yên.
Đây thực sự là một loại hình di tích rất đặc biệt chưa từng biết đến ở Việt Nam.
4.2. Chủ nhân: Chất liệu đất nung được làm cẩn thận từ nguyên liệu mịn, lọc kỹ, độ nung không cao, kích thước lớn, tồn tại tốt qua thời gian trong điều kiện môi trường rất khắc nghiệt cho thấy đây là một nét kỹ thuật đặc trưng của cư dân Chăm Pa, chủ nhân của những ngôi đền tháp kì vĩ, của những phù điêu, tượng, hoa văn trang trí kiến trúc bằng đất nung mà chúng ta đã biết. Hơn nữa, trên mảnh đất miền Trung nói chung và Phú Yên nói riêng, chỉ có người Chăm mới có nghi lễ và táng thức hỏa táng. Từ những lí do ấy, chúng tôi cho rằng chủ nhân của di tích này là người Chăm.
4.3. Niên đại: Đây thực sự là một vấn đề khó giải quyết trong đợt khai quật này. Trên khu di tích cũng như trong khai quật, một loại hiện vật rất quan trọng để định niên đại ngay là đồ gốm đã không có mặt. Thường trên những khu mộ này có nhiều đồ gốm song hành với nghi lễ và táng thức. Để lấy tro cốt, người ta cũng dùng bình gốm để chôn cất. Khi lò trở thành mộ cũng có những đồ gốm chôn theo với tín ngưỡng chia của cho người chết. Nhưng ở đây chúng tôi đã không tìm thấy những đồ gốm đó. Một lý do để giải thích là trận lũ lịch sử năm 2009 đã quét sạch tất cả những gì trên đường đi. Còn một giải pháp để định niên đại là phân tích mẫu tro than, xương bằng phương pháp C14.
Chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu tro than tại L1, H2 và gửi cho Phòng Thủy văn Đồng trị thuộc Trung tâm Hạt nhân TP. Hồ Chí Minh để phân tích xác định niên đại. Kết quả cho thấy mẫu này có niên đại 750 cộng trừ 70 năm cách ngày nay, lấy năm 1950 làm mốc, như vậy nằm vào thế kỷ XIII. Tuy nhiên theo khuyến cáo của các nhà vật lý học thuộc Trung tâm Hạt nhân thì mẫu than lấy được hạt rất nhỏ lại bị ảnh hưởng nhiều từ môi trường bên ngoài, hậu quả của trận lũ lịch sử năm 2009, nên kết quả này chỉ nên để tham khảo. Chúng tôi đang tiến hành gửi mẫu tiếp sang Nhật Bản để có những kết quả khác nhằm so sánh, đưa ra những kết luận chính xác hơn. Dù sao với kết quả niên đại này chúng tôi thấy cũng hợp lý. Niên đại được xác định nằm trong thời kỳ văn hóa Chăm Pa, nó càng khẳng định những ý kiến ban đầu về chủ nhân của khu di tích đích thực là người Chăm và việc khẳng đinh đây là loại hình Lò-Mộ là hoàn toàn xác đáng.
4.3. Một số giả thuyết khoa học:
- Căn cứ vào loại hình đặc biệt của di tích, cũng như táng thức cả hỏa táng lẫn địa táng cho cùng một cá thể, bên cạnh đó là cấu trúc và hình dáng đặc biệt của di vật (lò-mộ) như một con thuyền, với 2 đầu có cửa thông với bên ngoài. Chúng tôi nghĩ đến tục vẫn cho người chết ăn trong khi tiến hành nghi lễ của người Chăm ở Bình Thuận hiện nay.
- Loại hình này cùng với táng thức kép (hỏa táng trước, địa táng sau), chất liệu đất nung, cấu tạo hình con thuyền, có cửa thoát hồn, có cửa tiếp thức ăn…Chúng tôi giả định đây là loại hình trung gian, một cái gạch nối từ văn hóa Sa Huỳnh (mộ chum) đến văn hóa của một số tộc người ở Tây Nguyên với kiểu quan tài thân cây khoét rỗng và những nghi lễ tang ma của họ. Tuy nhiên đó là những câu hỏi lớn chưa thể khẳng định, cần có nhiều thời gian và công sức nghiên cứu.
- Chúng ta biết rằng: sau năm 1471, vùng đất này thuộc về Đại Việt, người Chăm, một phần đi xuống phía Nam, một phần ở lại và dần hòa huyết với cộng đồng Việt, một phần tiến lên miền rừng núi Tây Nguyên tạo nên một số sắc tộc của Cao nguyên. Có thể đưa ra giả thuyết khoa học: Những táng tục cũ dần biến đổi nhưng đâu đó chúng vẫn tồn tại như hình con thuyền của quan tài thân cây khoét rỗng, cửa thoát hồn, tục cho người chết ăn…
4.4. Kiến nghị: Cần nhận thức rõ ràng đây là một di tích đặc biệt, một phát hiện quan trọng không chỉ trong khảo cổ học mà còn trong nhiều ngành khoa học nhân văn khác như nhân học, văn hóa học, tôn giáo, lịch sử… Rất có thể đây sẽ là một bước ngoặt, một sự đột phá trong việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa không những của văn hóa Chăm Pa mà còn của cả miền Trung và Tây Nguyên. Do vậy chúng tôi khẩn thiết đề nghị:
- Ngay lập tức bằng mọi biện pháp bảo vệ khu di tích này, tránh sự xâm hại bởi những hoạt động canh tác nông nghiệp hay đào phá di tích với mục đích khác.
- Vì vị trí di tích ở ven sông, không thể bảo tồn tại chỗ nên cần nhanh chóng có dự án nghiên cứu tổng thể, khai quật khảo cổ học để di dời di tích đến mức tốt nhất. Đồng thời tiến hành điều tra toàn bộ khu vực này nhằm phát hiện thêm những di tích chưa biết, khoanh vùng bảo vệ tối đa.
- Thông tin và phối hợp nghiên cứu với các tổ chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước để đảm bảo chất lượng nghiên cứu.
- Ngoài việc khai quật di dời, Tỉnh Phú Yên cần có một dự án nghiên cứu chi tiết, tổng thể về di tích này với phương pháp nghiên cứu liên-đa ngành. Mời các chuyên gia trong và ngoài nước cùng nghiên cứu. Tổ chức hội thảo Khoa học nhằm đánh giá đúng giá trị của di tích.
TS.Nguyễn Tiến Đông